HÌNH ẢNH VỀ LỄ SƠ KÊT PHÁT THƯỞNG HỌC KÌ I
Hình ảnh Phát thưởng dành cho học sinh giỏi nhất lớp Hình ảnh Phát thưởng dành cho Học sinh giỏi học kì I Tặng quà mùa xuân ấp áp tình người..
CHÚC MỪNG NĂM MỚI.
Để chào đón một năm mới an khang thịnh vượng nhiều may mắn. Các em học sinh lớp 7.7 đã làm những tấm thiệp để gởi đến các chiến sĩ biển đảo những lời chúc tốt đẹp nhất.
Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016
Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016
02:29
Unknown
PHONG
TỤC NGÀY TẾT
Trồng
cây nêu đã trở thành tục lệ Tết phổ biến của các
dân tộc Việt Nam: từ Kinh, Thái, Mường đến Ba Na, Gia
Rai...
CÂY
NÊU NGÀY TẾT Trồng
cây nêu đã trở thành tục lệ Tết phổ biến của các
dân tộc Việt Nam: từ Kinh, Thái, Mường đến Ba Na, Gia
Rai... Trên ngọn nêu, người ta thường treo một túm lá
dứa, lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh
và con cá bằng đất nung, cùng một tán tròn bằng tre nứa
dán giấy đỏ.
Ngoài ra có nơi còn treo những chiếc đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai), không cho chúng vào quấy phá.
Cái khánh đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).
Đặc biệt, cây nêu còn coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm (cuối mùa đông) mới trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên đón ánh nắng xuân, sức sống xuân.
Nghi thức thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam
Nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam được coi là độc đáo, trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng trung du Bắc Bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật.
Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ một cách trang trọng. Khi cúng tế, người ta luôn cầu ân đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám tang hay khi gặp hoạn nạn, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên.
Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn.
Ngày nay, mọi gia đình người Việt Nam đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức thiêng liêng của con người./.
Ngoài ra có nơi còn treo những chiếc đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai), không cho chúng vào quấy phá.
Cái khánh đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).
Đặc biệt, cây nêu còn coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm (cuối mùa đông) mới trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên đón ánh nắng xuân, sức sống xuân.
Nghi thức thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam
Nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam được coi là độc đáo, trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng trung du Bắc Bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật.
Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ một cách trang trọng. Khi cúng tế, người ta luôn cầu ân đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám tang hay khi gặp hoạn nạn, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên.
Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn.
Ngày nay, mọi gia đình người Việt Nam đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức thiêng liêng của con người./.
Những
ngày giáp Tết, vùng Quảng Nam - Đà Nẵng thường thấy
xuất hiện các loại bánh tét, bánh tổ, bánh nổ, bánh
in - bốn loại bánh chủ lực trong những ngày đầu năm
mới ở xứ Quảng.
Bốn
loại bánh này hầu như không nhà nào ở vùng quê Quảng
Nam - Đà Nẵng không làm vào dịp Tết. Gặp gỡ nhân ngày
đầu năm, trao đổi, chuyện trò công việc đồng áng,
mùa màng..., chủ nhà thường mời khách bát nước chè
xanh hoặc bát nước lá gối (vối) cùng với các loại
bánh trên.
Các
cụ cũng luận bàn may mắn, hên xui dựa trên các loại
bánh đó. Cứ theo quan niệm dân gian, bánh tét vàng được
xem là không tốt cho nhiều việc trong năm, còn bánh trắng,
đẹp báo hiệu cho nhiều điều may mắn suốt cả năm
mới. Còn với các loại bánh khô nếu cứng mà không xốp,
đường không kéo thành sợi như tơ được xem là chưa
đạt kỹ thuật làm bánh. Chính vì vậy, việc chuẩn bị
gói bánh tét hay làm bánh tổ, bánh nổ, bánh in và các
loại bánh khác là hết sức quan trọng.
Bánh
tét chiên ăn với củ kiệu
Để
có một đòn bánh tét "đạt tiêu chuẩn" không
phải dễ. Nếp dùng làm bánh phải được chọn lựa kỹ,
ngâm nước vừa đủ sao cho khi nấu chín, tét ra từng lát
không thấy lợm cợm những hạt gạo lẫn vào nếp, bánh
không quá dính cũng không quá rời.
Gói
bánh phải chú ý sao cho nhân đậu nằm ngay ở giữa và
tròn đều để khi tét ra, lát bánh là một vòng tròn lớn
có màu xanh của nếp chín bao bọc chung quanh một vòng
tròn đậu xanh màu vàng mỡ. Lại phải chú ý đến khâu
nấu, sao cho bánh không ngả vàng mà có màu xanh nhạt.
Và
cuối cùng là tét bánh thành từng lát bằng một sợi dây
nhợ (nay dùng dây cước) - chính sợi dây này sẽ góp
phần làm cho lát bánh trơn láng, đẹp mắt. Ngày xưa, các
cô, các bà trước Tết phải kiếm cho được một nhánh
lá gai, vài lá thơm tước lấy chỉ làm dây nhợ để
dành tét bánh.
Có
người gọi bánh tét là bánh chưng tròn, chính vì sự
tương đồng gần như hoàn toàn về chất liệu giữa hai
thứ bánh này, chỉ khác ở chỗ: tỷ lệ thịt mỡ trong
nhân và tỷ lệ nhân so với nếp ở bánh tét ít hơn bánh
chưng. Song ngày trước nhân bánh tét thường chỉ là mè
rắc vào giữa bánh. Mè được rang chín, bóc vỏ sạch,
trộn với muối khi gói bánh để bánh được sánh và đậm
đà hơn.
Riêng
ở vùng Đại Lộc, nhân bánh tét còn làm bằng đậu xanh
đãi vỏ, hong chín, có thêm một ít muối ăn và tiêu
nhưng hoàn toàn không có mỡ, được gói bằng lá chuối
sứ nên rất thơm ngon và giữ được lâu ngày. Những nhà
giàu có thường làm vài ang nếp để gói bánh tét, bánh
để lâu ngày đem chiên giòn, ăn nửa buổi khi đi làm
đồng áng. Có gia đình dùng đến tháng hai mới hết bánh
tét.
Bánh
tét thường phải có dưa món ăn kèm. Nếu các tỉnh
phía Bắc có dưa hành thì đến vùng Quảng Nam, ngoài dưa
hành có thêm củ kiệu, đu đủ, củ cà rốt trong lọ dưa
món, tất nhiên có cả ớt; thêm nhiều màu sắc, hương
vị phong phú. Tên gọi dưa món cũng không ngoài ý nghĩa
ấy: phong phú, đa dạng, nhiều món.
Bánh
tổ
Loại
bánh mang đậm hồn quê này có thể ra đời từ thời Lê
Thánh Tôn. Khi đó, những người từ miền Bắc di cư vào
vùng đất mới Quảng Nam nhớ về quê cha đất tổ, nên
vào dịp Tết, họ làm một loại bánh bằng chất liệu
sẵn có tại địa phương dâng cúng tổ tiên, tạ ơn trời
đất đã được bình yên sau một năm cày sâu cuốc bẫm
trên những cánh đồng vừa mới khai phá không lâu.
Bánh
tổ, có nơi gọi là bánh ổ, được làm từ đường đen
và nếp hương. Đường đen là loại đường bát, cứng,
sản xuất từ các lò đường thủ công trong làng, còn
nếp chọn loại dẻo, thơm ngon. Người ta thắng đường
bát ra nước, lọc hết các tạp chất; nếp vo thật sạch,
để ráo rồi đem xay mịn thành bột. Hai chất liệu ấy
trộn với nhau theo tỷ lệ thích hợp, có pha thêm chút
nước gừng để bánh có hương vị thơm hơn. Dùng một
cái giỏ đan bằng tre (như cái rọ bịt mõm bò) miệng
rộng hơn đáy, lót lá chuối chờ sẵn.
Đổ
bột làm bánh vào giỏ, xong đưa vào nồi có lót một cái
vỉ tre nhỏ gần với đáy nồi. Đổ nước vào nồi,
cách chừng 5-6cm, chụm lửa cho sôi đều đến khi bánh
chín. Khi vớt bánh ra rải ít hột mè lên mặt bánh cho
đẹp rồi phơi nơi thoáng mát đến chừng bánh ráo trên
mặt thì đem cất, dùng trong các ngày Tết; có thể xắt
từng lát ăn ngay hoặc đem chiên giòn, kiểu nào cũng có
cái thơm ngon riêng.
Bánh
nổ
Đặc
trưng của vùng nông nghiệp lúa nước, với thành phần
gạo nếp là chủ yếu. Gạo nếp được rang lên cho nổ
đều, hạt nở to, bung ra khỏi vỏ, bỏ những hạt nổ
này vào cối đá (hoặc gỗ) giã cho mịn vừa phải. Thắng
đường bát loại tốt, ngọt thanh, cho thêm ít gừng.
Lửa
đun riu riu đến lúc đường kéo thành sợi là có thể ép
bánh được. Đổ bột nổ vào đường trộn đều, rắc
thêm một chút vani, rồi tất cả đưa vào khuôn, ép lại
thành bánh. Khuôn để ép bánh phổ biến có hình chữ
nhật, dài chừng 10 cm và rộng 6 cm, dày chừng 2-3 cm.
Bánh
in
Làm
bánh in cũng hết sức công phu. Nếp thơm, dẻo vuốt với
nước sạch, vớt ra giữ độ ẩm thích hợp đến khi ráo
nước. Dùng một cái trã (nay người ta dùng chảo) rang
nếp cho chín, phồng lên, ngả màu vàng mật, thoảng mùi
thơm của nếp là được. Cho nếp vào cối đá hoặc gỗ,
giã mịn (bây giờ đã có máy xay bột vừa nhanh vừa tiện
lợi). Bột mịn, khô xốp nên cần phải phơi một hoặc
hai sương cho có độ ẩm thích hợp.
Kế
đó, đường bát cũng được nạo thành bột mịn, trộn
đều vào bột bánh. Để bột có thể in thành lát được,
người ta dùng tay hoặc một đoạn gỗ nhồi thật kỹ,
thật đều, cho tới đường - đến khi có thể nắm thành
từng viên là được, lúc đó mới có thể cho bột
vào khuôn in được.
Nhẹ
tay úp khuôn bánh lên nong, nia có lót giấy hoặc lá chuối
cho sạch, để lấy bánh ra. Để bánh được cứng hơn,
có thể phơi một nắng, hoặc dùng than củi nướng qua
một lần, bánh sẽ cứng hơn và có mùi thơm hòa quyện
của đường và nếp. Nay, phổ biến là bánh in có trộn
thêm bột đậu xanh. Cũng có loại bánh in chỉ làm hoàn
toàn bằng bột đậu xanh đã được rang chín xay mịn,
trộn với đường đã thắng keo lại.
Ngoài
bốn loại bánh trên, ở Quảng Nam - Đà Nẵng dịp Tết
còn có vài loại bánh khác như bánh rò, bánh khô, bánh
gừng...
Bánh
rò
Được
làm trong các ngày kỵ giỗ, đám tiệc trong năm nên đến
ngày Tết, nó chỉ xuất hiện vài chiếc trên bàn thờ tổ
tiên, còn thì nhường chỗ cho một loại bánh anh em ruột:
bánh tét.
Từ
quê hương đồng bằng Bắc bộ, chiếc bánh chưng khi vào
đến vùng Quảng Nam có thể đã trở thành chiếc bánh
rò. Chất liệu hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác thay vì
hình dạng vuông vắn, bánh rò được gói thành hình tháp,
mặt trên nhỏ hơn mặt dưới, mô phỏng các tháp của
người Chăm!
Bánh
khô
Rất
phổ biến ở vùng Hòa Vang, Đà Nẵng. Về mặt hình thức,
có hai loại: bánh mè và bánh nổ và đều được làm rất
công phu. Một cái bánh khô ngon là khi bẻ đôi mà nổ
hoặc mè không rơi rụng, xốp, giòn (do công đoạn nướng
và độ ẩm thích hợp mà có).
Ở
Quảng Nam, nếp ngon có ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc,
Quế Sơn, còn ở Đà Nẵng có cánh đồng xã Hòa Liên
thuộc huyện Hòa Vang trồng được loại nếp thơm. Nếp
dẻo và thơm dùng gói bánh tét, làm bánh khô, bánh nổ,
bánh in rất ngon. Nhưng nơi sinh thành của chiếc bánh khô
lại là làng Quan Châu thuộc xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang
(phía nam TP Đà Nẵng).
Bánh
làm bằng bột nắn thành hình trông như củ gừng, đem
chiên dầu cho phồng lên và có màu vàng như màu gừng.
Người ta cắm những củ gừng ấy vào tăm tre nhỏ rồi
đem đặt thành hình tháp chung quanh một cái lõi làm bằng
thân cây chuối. Tất cả đặt trên chiếc mâm gỗ trông
như một khối tháp, toàn khối như vậy gọi là "quả
bánh gừng".
Bên
cạnh bánh gừng còn có khối bánh thuẩn, bánh ngũ sắc,
bánh quai vạc, bên cạnh lát bánh khô, bánh rò, bánh in
còn có xôi đường. Tất cả đều góp phần tạo nên
phong vị Tết Quảng Nam - Đà Nẵng thêm phong phú. Rất
nhiều loại bánh tết xứ Quảng có thể dự trữ lâu, dễ
mang xách. Mang theo vài đòn bánh tét, vài cái bánh tổ là
có thể yên trí ngao du vài ngày xem hội đua ghe, hát bội
đầu xuân. Ra giêng, đi làm ngoài đồng, ngoài bãi có thể
mang theo ít bánh khô để "uống nước" nửa buổi,
kéo dài hương vị ngày xuân...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)